Ba mươi năm sau ngày bình thường hóa quan hệ, trong làn sóng “Nước Mỹ trên hết” thứ hai, những quy tắc của thương mại toàn cầu lại một lần nữa thay đổi. Khi Washington và Hà Nội cùng công bố Khung Thỏa thuận Thương mại Song phương về Cân bằng, Công bằng và Có đi có lại vào tháng 10/2025, ngay khi hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 47 đang diễn ra, thế giới hiểu rằng đây không chỉ là một hiệp định thương mại. Nó là bước mở đầu cho một trật tự kinh tế – chiến lược mới, nơi thương mại, niềm tin và công nghệ hòa vào nhau. Đối với Hoa Kỳ, đây là một phần trong nỗ lực tái định hình bản đồ công nghiệp khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nhằm tạo dựng mạng lưới “chuỗi cung ứng đáng tin cậy” – nơi hiệu quả kinh tế đi đôi với độ tin cậy chính trị.

Còn với Việt Nam, thỏa thuận này vừa là cơ hội, vừa là bài kiểm tra: liệu một nền kinh tế xuất khẩu đang lên có thể trưởng thành thành một đối tác chiến lược đáng tin trong kỷ nguyên “giảm rủi ro” và “toàn cầu hóa chọn lọc” hay không. Khung thỏa thuận được xây dựng trên bốn trụ cột âm thầm nhưng quyết liệt trong tư duy thương mại mới của Washington.
- Đầu tiên là cân bằng: Yêu cầu giảm thâm hụt kéo dài của Mỹ bằng tiếp cận thị trường có đi có lại.
- Kế đến là an ninh chuỗi cung ứng: Đưa Việt Nam vào nhóm đối tác tin cậy trong các lĩnh vực then chốt như bán dẫn, năng lượng sạch và dược phẩm.
- Trụ cột thứ ba là tuân thủ tiêu chuẩn cao: Biến các chuẩn mực môi trường, minh bạch và quản trị thành lợi thế chiến lược.
- Và cuối cùng là giảm phụ thuộc vào Trung Quốc: Tái phân bổ sản xuất mà không để Việt Nam trở thành “cửa ngách” trung chuyển hàng hóa.
Đằng sau những điều khoản kỹ thuật là một ý đồ chiến lược rõ rệt. Hoa Kỳ không chỉ đang điều chỉnh thương mại -mà đang kiến tạo lại bản đồ công nghiệp của thế giới, kéo dài từ Ấn Độ qua Đông Nam Á đến Nhật Bản và Đài Loan -thứ mà các chiến lược gia gọi là Vành cung sản xuất Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương.
Việt Nam, nằm ở điểm khớp của vành cung ấy, được kỳ vọng không chỉ sản xuất hiệu quả mà còn chứng minh năng lực minh bạch và đáng tin cậy. Đối với kinh tế Việt Nam, thỏa thuận này mang đến cả sức ép lẫn chuyển hóa. Những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, điện tử tiêu dùng sẽ chịu ảnh hưởng của mức thuế 20% duy trì lâu dài -biên lợi nhuận bị nén lại, mô hình “sản xuất giá rẻ” sẽ không còn bền vững. Nhưng trong khi cánh cửa cũ khép dần, một cánh cửa khác mở ra cho những doanh nghiệp có thể đáp ứng tiêu chuẩn về xuất xứ, công nghệ và bền vững. Các lĩnh vực như thiết bị y tế, công nghiệp sạch, sản xuất linh kiện cao cấp có thể trở thành điểm đến của làn sóng đầu tư Mỹ tiếp theo.
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang dịch chuyển. Nếu ở thập niên 2000, lợi thế là chi phí thấp, thì ở thập niên 2020, lợi thế là tuân thủ. Thị trường toàn cầu giờ đây không chỉ trả giá cho sản phẩm -mà trả giá cho độ tin cậy. Trong nền kinh tế của niềm tin, uy tín chính là loại hàng hóa có giá trị cao nhất.
Với Việt nam, đây vừa là tấm gương, vừa là cột mốc. Nó phản chiếu chặng đường Việt Nam đã đi qua -và phần đường còn lại để trở thành đối tác đáng tin cậy trong chuỗi thương mại toàn cầu. Việc cải thiện quản trị doanh nghiệp nhà nước, kiểm soát chặt xuất xứ hàng hóa và hài hòa chính sách công nghiệp với chuẩn quốc tế sẽ quyết định giai đoạn phát triển kế tiếp. Hội đồng Đầu tư và Thương mại Mỹ -Việt mới thành lập sẽ trở thành cơ chế trung tâm, nơi các bất đồng được giải quyết và niềm tin được củng cố.
Nhưng quan trọng hơn cả, thỏa thuận này đánh dấu bước chuyển sâu hơn: từ xuất khẩu sang chuẩn mực, từ tăng trưởng sang tin cậy. Gia nhập “câu lạc bộ đối tác tin cậy” của Mỹ cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam phải sẵn sàng chịu soi xét kỹ hơn. Doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào linh kiện Trung Quốc sẽ đối mặt với chi phí kiểm định cao hơn. Thị trường trong nước sẽ mở rộng cho hàng Mỹ, khiến cạnh tranh gay gắt hơn. Và sự minh bạch sẽ không còn là khẩu hiệu -mà là điều kiện tồn tại.

Đây là giai đoạn mà Nhà nước và doanh nghiệp phải cùng gánh một sứ mệnh: biến minh bạch thành lợi thế cạnh tranh. Chính phủ cần chuyển từ khuyến khích xuất khẩu sang đảm bảo xuất khẩu có trách nhiệm -đầu tư vào hệ thống truy xuất nguồn gốc số, ứng dụng blockchain và AI, xây dựng trung tâm hỗ trợ tuân thủ chuỗi cung ứng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về phía doanh nghiệp, việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng, đầu tư ESG, và đa dạng hóa thị trường không còn là lựa chọn, mà là điều bắt buộc. Họ cần học ngôn ngữ mới của thương mại toàn cầu -ngôn ngữ của minh bạch, bền vững và công nghệ. Ai nói ngôn ngữ đó trôi chảy sẽ là người dẫn đầu trong trật tự hậu Trung Quốc.
Nếu Việt Nam làm được, phần thưởng không chỉ là thị phần, mà là vị thế. Đó là bước chuyển từ “nhà gia công” sang “đối tác kiến tạo”, từ “người tham gia” sang “người đồng sáng lập” trong mạng lưới công nghiệp toàn cầu.
Từ nay đến 2030, Việt Nam có thể trở thành một trung tâm sản xuất – dịch vụ đáng tin cậy khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nếu nền tảng tăng trưởng được đặt trên ba trụ: quản trị tốt, nhân lực trình độ cao và phát triển bền vững. Hành trình tới năm 2045, kỷ niệm 100 năm độc lập, sẽ không chỉ đo bằng GDP, mà bằng độ trưởng thành thể chế.
Thỏa thuận Mỹ -Việt 2025 vì thế không đơn thuần là một bản ghi nhớ thương mại, mà là một bản giao ước mới giữa thương mại và niềm tin. Nó đòi hỏi Việt Nam không chỉ bán hàng hóa -mà thể hiện bản lĩnh. Không chỉ xuất khẩu sản phẩm -mà xuất khẩu uy tín.
Nguồn: Sưu tầm từ Internet.


Bài Viết Liên Quan
Thị trường phế nhôm ASEAN trong bối cảnh kinh tế toàn cầu dịch chuyển: Xu hướng, chính sách và triển vọng dài hạn
Đặt Phúc Lợi Con Người Lên Trên Chỉ Số Khí Thải: Quan Điểm Gây Tranh Luận Của Bill Gates
Vietjet và Đại học Oxford công bố kết quả nghiên cứu hướng tới Net Zero Carbon cho ngành hàng không
Dữ liệu thông minh giúp các nhà giao dịch vượt qua thị trường thương mại bất ổn và đầy biến động
Cập nhật ấn bản lần thứ 16 của “Thống kê Tái chế Thép Toàn cầu” – BIR
‘Tia hy vọng’ cho các nhà tái chế nhựa giữa thị trường khó khăn kéo dài